Tay nghề khi xuất ngoại – Nhìn thẳng vào những hạn chế cố hữu

Hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều bất cập khiến cho tuyển dụng lao động đi nước ngoài có những hạn chế.

Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài với nhiều loại hình ngành nghề công việc khác nhau và được đánh giá là chăm chỉ, ham học hỏi.

Nhu cầu đối với người lao động Việt Nam rất lớn

Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước, hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là một trong những chủ trương chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước. Hoạt động này góp phần tạo mở việc làm cho người lao động với công việc ổn định và thu nhập tốt.

Từ đó, nâng cao trình độ kỹ năng, tay nghề, ngoại ngữ cho người lao động. Đồng thời, xóa đói giảm nghèo và mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước từ thu nhập người lao động chuyển về trong nước.

Theo số liệu ước tính, hiện có khoảng 580 nghìn lao động Việt Nam làm việc ở gần 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Phần lớn tập trung ở các thị trường Nhật Bản với khoảng 250 nghìn người. Đài Loan (Trung Quốc) với khoảng 230 nghìn người. Hàn Quốc với khoảng 50 nghìn người. Còn lại ở các thị trường châu Âu, Trung Đông và Malaysia.

Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài với nhiều loại hình ngành nghề công việc khác nhau. Chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất chế tạo chiếm 80% như cơ khí, dệt may, giầy da, lắp ráp điện tử… Còn lại trong lĩnh vực xây dựng, nông nghiệp, thủy sản, dịch vụ như chăm sóc người già, người bệnh, giúp việc trong gia đình.

Lao động làm việc ở nước ngoài có thu nhập cao và ổn định, điều kiện làm việc được bảo đảm, khoảng 1.200 – 1.500 US$/tháng tại Nhật Bản và Hàn Quốc, 800 – 1.200 US$ tại Đài Loan và các nước châu Âu, 600 – 1.000 US$/tháng đối với lao động có nghề và 400 – 600US$ đối với lao động phổ thông ở địa bàn Trung Đông. Nhìn chung, người lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài được người sử dụng lao động đánh giá tích cực về sự cần cù, chăm chỉ, khéo tay với khả năng nắm bắt công việc nhanh. Bên cạnh đó là đức tính ham học hỏi, sáng tạo và làm việc năng suất, chất lượng. Vì thế, các chủ sử dụng nước ngoài muốn tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam hơn so với các nước khác.

Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi hoạt động kinh tế – xã hội của toàn cầu, đặc biệt khó khăn đối với lĩnh vực người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Nguyên nhân từ việc tuyển chọn, đào tạo lao động trước khi đi. Các quốc gia, vùng lãnh thổ áp dụng các chính sách phòng ngừa sự lây lan của dịch bệnh Covid-19 đã hạn chế xuất nhập cảnh. Theo đó, việc dừng các chuyến bay thương mại đã khiến cho việc đưa người lao động ra nước ngoài làm việc và về nước gặp nhiều khó khăn.

Mặc dù, dịch bệnh đã ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ sử dụng lao động ở nước ngoài, nhưng theo báo cáo của các doanh nghiệp, nhu cầu đối với người lao động Việt Nam vẫn rất lớn. Theo số liệu thống kê từ các doanh nghiệp, hiện nay số lao động các doanh nghiệp đã tuyển và đang chờ xuất cảnh hơn 80.000 người. Trong đó Nhật Bản khoảng 60.000 người, Đài Loan khoảng 13.000 người và Hàn Quốc khoảng 7.000 người và một số thị trường khác.

Rất nhiều hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài vẫn còn có những vấn đề tồn tại, hạn chế nhất định. Đó là, phần lớn người lao động đi làm việc ở nước ngoài thời gian qua chưa qua đào tạo nghề nghiệp một cách chính quy, bài bản chiếm khoảng hơn 50%. Vì thế, thường làm những công việc giản đơn, mức tiền công không cao so với mặt bằng ở nước tiếp nhận. Vị thế của người lao động chưa cao nên dễ bị tổn thương khi xảy ra khủng hoảng.

Một bộ phận người lao động thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, vi phạm hợp đồng lao động và quy định pháp luật ở nước đến làm việc. Một số lao động tự ý ở lại cư trú và làm việc không hợp pháp khi kết thúc hợp đồng lao động.

Trong giai đoạn trước đây, nhiều thị trường lao động ngoài nước tiếp nhận số lượng lớn lao động phổ thông trong nhiều ngành nghề từ nước ngoài vào làm việc, trong đó có lao động Việt Nam. Cụ thể như thị trường Malaysia và một số quốc gia thuộc khu vực Trung Đông.

Tuy nhiên, số lượng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài tại các thị trường này giảm hẳn. Người lao động không mặn mà đi làm việc tại các quốc gia và khu vực này do thu nhập của người lao động thấp hơn hẳn so với các quốc gia tiếp nhận khác và chênh lệch không đáng kể so với mặt bằng thu nhập của người lao động làm việc trong nước.

Hiện nay, tại nhiều thị trường lao động ngoài nước vẫn tiếp nhận lao động phổ thông nhằm bù đắp sự thiếu hụt nhân lực làm các công việc giản đơn, độc hại, nguy hiểm, công việc mà người dân nước sở tại không muốn làm. Nhưng về xu hướng, phần lớn người sử dụng lao động đều muốn nhận lao động đã qua đào tạo, có trình độ chuyên môn, tay nghề, ngoại ngữ. Bởi những lao động này có khả năng tiếp thu công việc nhanh, làm việc có năng suất và hiệu quả. Thêm vào đó là ý thức tổ chức kỷ luật lao động và sinh hoạt tốt hơn.

Đặc biệt, tại nhiều nước công nghiệp phát triển, không chấp nhận lao động phổ thông, lao động trình độ thấp, mà yêu cầu phải có trình độ chuyên môn, tay nghề, ngoại ngữ như là một trong những điều kiện tiên quyết để tiếp nhận lao động nước ngoài vào làm việc. Bên cạnh đó, nhằm đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng nguồn lao động, cũng như tiêu chuẩn trình độ chuyên môn, tay nghề và ngoại ngữ đối với lao động của đối tác nước ngoài, các doanh nghiệp dịch vụ cũng gặp không ít khó khăn trong việc tuyển chọn lao động đi làm việc ở nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp đã phải bỏ lỡ các đơn hàng tốt, do không có nguồn lao động đáp ứng yêu cầu.

Đối với người lao động muốn đi làm việc tại thị trường lao động các quốc gia có thu nhập tốt hơn như Nhật Bản, Hàn Quốc, một số quốc gia tại khu vực châu Âu, người lao động phải có trình độ tay nghề. Bên cạnh đó, ngoại ngữ phải đáp ứng được với yêu cầu của doanh nghiệp tuyển dụng.

Tại Trung Đông – châu Phi, mặc dù điều kiện làm việc khắc nghiệt, mức lương và thu nhập không cao đối với lao động phổ thông, nhưng đối với lao động có nghề hàn, lắp ráp, hoàn thiện công trình thu nhập khá cao. Trong khi đó chi phí đi làm việc ở thị trường này thấp. Thời gian đào tạo để lấy chứng chỉ nghề quốc tế khoảng 3 – 6 tháng, nên vẫn phù hợp với một bộ phận người lao động vùng nông thôn.

Ngọc Trang

Theo Ngọc Trang – Nguồn GD&TĐ

Tay nghề khi xuất ngoại – Nhìn thẳng vào những hạn chế cố hữu

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển lên trên